Bùi Tín - Tướng Võ Nguyên Giáp, như tôi từng biết

Đại tướng Võ Nguyên Giáp vừa qua đời ngày 4/10/2013, quá tuổi 102, (đến 25-8-2011 là tròn trăm tuổi). Thọ hơn 1 thế kỷ là cực hiếm, cực quý trong đời một người, vượt qua Đại Thọ Bách Niên. Người xưa nói khi nắp quan tài đậy lại là dịp luận bàn đánh giá đầy đủ về cuộc đời của người mới mất.Tuy vậy, do hoàn cảnh lịch sử, đấu tranh chính trị và chiến tranh kéo dài, sự phân chia Nam Bắc sau trận Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ, do hòa giải hòa hợp dân tộc vẫn còn ở phía trước, nên việc đánh giá tướng Giáp còn là một vấn đề tranh cãi, tranh cãi quyết liệt, kéo dài, với những chính kiến khác nhau, xa nhau, trái ngược hẳn nhau. Đây là điều không có gì lạ. Cho nên một đánh giá thống nhất về tướng Giáp là điều khó xảy ra, là hoàn toàn ảo tưởng. Qua bài viết này, tôi giữ thái độ khách quan công bằng, cũng là tưởng niệm khi ông mới đi xa
Tôi gặp tướng Giáp từ những ngày đầu khởi nghĩa tháng 8-1945 ở Hà Nội.  Năm 1948 - 1949 tôi gặp lại ông ở Bộ Tư lệnh Quân khu 4, thành phố Vinh.  Sau 1955 tôi dự nhiều cuộc họp ở Bộ Quốc phòng - Tổng tham mưu, do  tướng Giáp chủ tọa. Đầu tháng 5-1975, khi vào Sài Gòn tìm hiểu tình  hình, ông điện chọn «nhà báo quân đội Bùi Tín làm người lên kế hoạch  và hướng dẫn đại tướng thăm thú phố xá Sài Gòn - Chợ lớn, thăm gia đình  vài anh chị em biệt động thành, thăm bà mẹ chiến sỹ tiêu biểu»,  trong 2 ngày, sau đó ông mới làm việc chính thức với Ủy ban Quân quản,  Bộ Tư lệnh Quân khu 7 và xuống Cần Thơ thăm Quân khu 9, tôi cùng đi  theo.

Năm 1976 và 1977, tướng Giáp cầm đầu Đoàn đại biểu quân sự Việt Nam đi  thăm chính thức lần lượt các nước Trung Quôc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Ba  Lan, Hungary, Romania, Liên Xô. Tôi ở trong đoàn, làm Trợ lý báo chí cho  Bộ trưởng kiêm phóng viên cho báo Quân đội Nhân dân, giúp ông theo dõi  thời sự quốc tế, trả lời phỏng vấn của báo chí, truyền hình các nước,  đồng thời làm tin về hoạt động hằng ngày của đoàn. Mỗi buổi sáng, Cục  trưởng đối ngoại của Bộ Quốc phòng và tôi là 2 người thường ăn sáng  riêng cùng tướng Giáp để báo cáo tình hình và bàn công việc trong ngày.

Những năm 1986, 1990 vào dịp Đại hội đảng CS khóa VI và chuẩn bị Đại Hội  VII, ông thường nhắn tôi đến nhà riêng ăn cơm gia đình để tìm hiểu tình  hình xã hội, quân đội, dư luận quốc tế. Ông là người ưa nghe hơn là  nói, thường kín đáo, không cởi mở, ít bạn tâm giao; ông cũng không hút  thuốc, không uống rượu, không uống cà phê, chỉ uống nước trà pha rất  loãng, không đánh bài tulơkhơ để giải trí như các ông tướng khác. Một  thời khi bị xét nét về cái gọi là vụ «án xét lại chống đảng»  (1966-1967) ông giải tỏa tinh thần bằng cách học đánh đàn dương cầm, mới  chơi được vài bài phổ thông, chưa chơi được bài cổ điển như Dòng sông Danube hay Phiên chợ Ba Tư.
Công danh và những điều hạn chế

Về tài năng, ông Giáp quả có tài, mới đứng vững trên vị trí chỉ huy cao  nhất của Quân đội Nhân Dân từ 1946 cho đến 1982, nghĩa là suốt 36 năm,  qua 2 cuộc chiến tranh lâu dài, ác liệt. Tất nhiên trong cơ chế lãnh đạo  tập thể, còn có Bộ Chính trị, có Đảng ủy Quân sự Trung ương, có các  tướng lãnh và sỹ quan giúp việc dưới quyền, lại còn có cố vấn quân sự  Trung Quốc, Liên Xô và vài nước khác, nên những chủ trương chiến lược,  chiến dịch thường được bàn bạc chung.

  Như khi chủ trương mở chiến dịch Biên giới năm 1950, lúc đầu tướng Giáp  đề xuất đánh vào thị xã Cao Bằng trước, nhưng các cố vấn Trung Quốc do  tướng Trần Canh cầm đầu đề nghị đánh theo kiểu «công điểm diệt viện»,  trước hết đánh vào Đông Khê trên đường số 4, ở giữa Cao Bằng và Lạng  Sơn, tiêu diệt cả binh đoàn Charton từ Cao Bằng rút chạy và binh đoàn  Lepage từ Lạng Sơn lên đón, đều bị tiêu diệt hay bắt sống ở ngoài công  sự, khi hành quân trong rừng; kết quả là giải phóng luôn cả Cao Bằng,  Lạng Sơn và một vùng biên giới rộng lớn, thu rất nhiều vũ khí, bắt nhiều  tù binh. Biên giới Việt - Trung rộng mở là chuyển biến chiến lược, có ý  nghĩa quyết định cho những chến thắng sau này.
Về chiến địch Điện Biên Phủ, có thể nói chủ trương chiến dịch mang đậm  tài năng chỉ huy của tướng Giáp. Năm 1989, nhân kỷ niệm 35 năm chiến  dịch này, ông đã kể lại cho tôi nghe diễn biến cụ thể của chiến dịch, có  ghi âm, được nhà văn Hữu Mai cùng dự ghi lại, thành bài hồi ký «Quyết định khó khăn nhất» đăng trên tuần báo Nhân dân Chủ nhật.  Khi quân Pháp vừa nhảy dù xuống lòng chảo Điện Biên hồi cuối tháng  11-1953, Bộ Tổng tham mưu đã phác họa ngay kế hoạch bao vây và tấn công  theo phương châm «đánh nhanh giải quyết nhanh» (khoái tả khoái diệt),  theo học thuyết quân sự của Lâm Bưu khi địch mới lâm thời phòng ngự,  chưa có hệ thống phong thủ vững chắc. Tổng cố vấn Vi Quốc Thanh và đoàn  cố vấn quân sự Trung Quốc tán thành phương châm này, theo kiểu ồ ạt,  thường gọi là «biển người». Đầu tháng 1-1954, tướng Giáp lên  đến mặt trận, vòng vây được xiết dần, pháo lớn được kéo vào đặt trên  sườn núi, được ngụy trang kỹ, với nhiều ụ pháo nghi binh, dự định khai  hỏa vào lúc 18 giờ ngảy 26-1, dự tính sau 2 đêm 1 ngày sẽ diệt xong cả  tập đoàn cứ điểm.

Nhưng cả đêm 25-1, tướng Giáp thao thức trăn trở về khả năng chiến  thắng. Trưa 26-1  ông họp đảng ủy mặt trận cùng 3 tướng: Hoàng Văn  Thái,Tổng tham mưu trưởng kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận; Lê Liêm, Phó  chủ nhiệm Tổng cục Chính trị kiêm Chủ nhiệm chính trị Mặt trận; Đặng Kim  Giang, Phó chủ nhiệm hậu cần kiêm Chủ nhiệm hậu cần Mặt trận. Sau khi  nêu rõ tuyến phòng thủ đã trở nên kiên cố của quân Pháp, tướng Giáp đưa  ra ý kiến ngừng cuộc tiến công, rút pháo ra phía sau, chuẩn bị lại theo  phương châm «đánh chắc tiến chắc», nghĩa là: đánh dũi theo  đường hào bao vây chia cắt, diệt từng cứ điểm, dùng chiếc xẻng cán ngắn  làm công cụ tiến công chính. Cả 3 tướng Thái, Liêm, Giang đều sững sờ vì  bị bất ngờ, muốn giữ nguyên phương châm cũ, vì bộ đội đã được động viên  cao, chỉ chờ lệnh là xông tới, nay đình lại là như dội nước lạnh, sau  này động viên trở lại rất khó. Đã xế chiều, tranh luận còn gay go, tướng  Giáp hỏi lại rằng có ai tin là sẽ chắc thắng trăm phần trăm, theo  phương châm cũ không, thì cả 3 tướng nói trên đều không trả lời được.  Ông dùng quyền bí thư đảng uỷ mặt trận, quyền tư lệnh chiến dịch kết  thúc cuộc họp,  dùng điện thoại ra lệnh trực tiếp cho các tư lệnh dưới  quyền giữ vững quyết tâm diệt địch nhưng đình chỉ tiến công, kéo pháo  ra, chấp hành triệt để, vì tình hình đã thay đổi, địch đã phòng thủ vững  chắc, cần thay phương châm tác chiến sang «đánh chắc tiến chắc»,  ai còn thắc mắc sẽ giải thích sau. Việc thay đổi phương châm, rút pháo  ra, chuẩn bị thêm gần 50 ngày đêm, để đêm 10-3 mở cuộc tiến công vào cứ  điểm Him Lam, Độc Lập cho đến chiều 7 tháng 5-1954 toàn thắng, cũng qua  hơn 50 ngày đêm chiến đấu, được tướng Giáp coi là «Quyết định khó khăn nhất»  trong đời ông. Cần công bằng công nhận đây là biểu hiện tài chỉ huy  mang dấu ấn riêng của ông. Như ông kể, Đại tá Nguyễn Hiếu ở Sở chỉ huy  chiến dịch và Đại tá Cục phó Quân báo Cao Pha đã góp phần của mình, sớm  tán đồng phương châm «đánh chắc tiến chắc» do ông đề ra. Về  sau, nhiều sỹ quan công nhận rằng không thay phương châm, cứ liều húc  vào một hệ thống phòng thủ vững chắc như tướng Pháp Navare và Cogny mong  muốn thì 4 sư đoàn tiến công - vốn liếng quân sự của cuộc kháng chiến  -  sẽ bị tổn thất nặng nề ra sao, và diễn biến của cuộc chiến tranh chắc  chắn sẽ khác hẳn. Các cố vấn quân sự Trung Quốc đều bất ngờ khi tướng  Giáp báo tin thay đổi phương châm và sau khi nghe giải thích họ cũng tỏ  ra tán thành.

Sau chiến thắng lớn như trên, các nhà bình luận quân sự phương Tây  thường chỉ ra phía kháng chiến đã chịu những tổn thất khủng khiếp, gấp 3  hay 4 lần đối phương. Cái giá phải trả cho chiến thắng là quá lớn, lớn  đến khủng khiếp, toàn là trai tráng thanh niên tuấn tú, có lý tưởng,  chất lượng cao của dân tộc. Đây là sự thật. Hồi tháng 4-1996, trong cuộc  hội thảo ở  trụ sở Quốc Hội  Hoa kỳ, tướng Westmoreland nói với tôi  rằng: «Tôi công nhận tài năng của tướng Giáp, phải có tài mới ở lâu đến  hơn 30 năm chiến tranh trên cương vị tư lệnh quân sự cao nhất; nhưng  phải nói thật là nếu như tướng Giáp là một viên tướng Hoa kỳ thì ông đã  bị mất chức từ lâu rồi, vì Quốc hội chúng tôi, xã hội chúng tôi không  thể chấp nhận những tổn thất sinh mạng của quân đội mình cao đến vậy».

Tôi nghĩ  nền độc lập của đất nước, quyền sống tự do của nhân dân là vô  giá, dù cho phải trả giá cao, nhưng lãnh đạo đảng Cộng sản đã không quan  tâm thật sự đến tự do của nhân dân, chỉ quan tâm trước hết đến quyền  lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của đảng, do đó mà vô vàn hy sinh của các  liệt sỹ cuối cùng đã trở nên phũ phàng, mỉa mai, không được đáp đền một  cách xứng đáng. Đây là điểm tiêu cực nhất của tướng Giáp, là tỳ vết sâu  đậm nhất của một danh tướng, từng được coi là Người Anh Cả của Quân đội  Nhân dân. Ông mang danh là một viên tướng «Sát Quân», sát quân một cách lạnh lùng.

Tôi đã gửi 2 lá thư cho ông (năm 1992 và 1996), nhắc ông rằng quân hàm  đại tướng 4 sao của ông được mạ bằng xương máu của hàng vạn vạn chiến  binh, rằng «nhất tướng công thành vạn cốt khô», mong ông hãy  tham gia, ủng hộ phong trào đổi mới theo hướng dân chủ hóa thật sự đất  nước; rằng ông chỉ cần ghé thăm anh Hoàng Minh Chính đang bị chính quyền  đối xử rất tồi tệ, hoặc nhắn anh Đại tá Phạm Quế Dương mới ra khỏi nhà  giam đến hỏi chuyện, cả 2 đều là sỹ quan từng dưới quyền trực tiếp của  ông, ông vẫn làm ngơ, không động lòng. Đây là điểm yếu về ý chí, công  tâm, nhân cách.

Nhiều người nhắc đến lá thư tháng 1-2004 của tướng Giáp gửi lãnh đạo  đảng CS yêu cầu giải quyết «vụ án siêu nghiêm trọng» liên quan đến Tổng  cục II, làm rõ vụ Năm Châu, Sáu Sứ và vụ T4, và sau này là 3 lá thư của  ông hồi 2008-2009 về yêu cầu đình chỉ việc khai thác bauxite trên địa  bàn chiến lược Tây Nguyên. Đây là những việc làm có ý nghĩa tích cực,  nhưng lá thư thứ nhất quá chậm trễ, vì các vụ Năm Châu, Sáu Sứ và vụ T4  đều xảy ra từ hồi 1991 - 1993 cũng như vụ dựng lên Tổng cục II từ Cục 2  Quân báo đến lúc đó cũng đã được mười năm. Ông Giáp phải chờ đến năm  2004 - năm kỷ niệm nửa thế kỷ Chiến thắng Điện Biên Phủ  - mới lên  tiếng. Mà nội dung lên tiếng xem kỹ ra là nặng về thanh minh cho riêng  cá nhân mình, như ông bị Năm Châu, Sáu Sứ dựng lên tài liệu để vu cáo là  ông có âm mưu đảo chính, hay vụ T4 là do Tổng cục II bịa ra tài liệu vu  cáo ông và nhiều nhân vật khác có quan hệ với CIA  của Hoa kỳ. Nói tóm  lại ông chỉ trước hết nhằm bảo vệ thanh danh của cá nhân mình, cố chăm  nom cho cái bộ mã của người hùng Điện Biên không bị hoen ố, cho đến khi  hơn trăm tuổi.

Thái độ của ông đối với vụ khai thác bauxite cũng có phần yếu ớt, buông  xuôi, so với những lá thư mạnh mẽ, lặp đi lặp lại của các tướng Đồng Sỹ  Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh và một số sỹ quan cấp cao khác.

Dũng khí là đức tính hàng đầu của một danh tướng, nên vào năm 1984, khi  ông Lê Duẩn đến nói chuyện rất hẹp với cán bộ lãnh đạo báo Nhân Dân, ông  kể rằng hồi 1968, bộ trưởng quốc phòng «nhát như thỏ đế», tránh  mặt ra nước ngoài. Sự thật kế hoạch quân sự Mậu Thân 1968 là do các ông  Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà đề xuất, khởi thảo và chỉ đạo  thực hiện. Khi chiến sự bùng nổ Tết Mậu Thân, ông Giáp đang dưỡng bệnh 2  tháng ở Hungary sau khi mổ cắt túi mật ở đó. Thật ra ông không tán  thành tham vọng tổng tiến công và nổi dậy, ông chỉ có ý thực hiện tập  kích chiến lược, đánh rồi rút bảo toàn lực lượng, đánh lâu dài. Ý ông  đúng, nhưng không cản nổi.

Ở Bộ Quốc phòng và Tổng tham mưu, các sỹ quan đều biết rằng suốt trong  30 năm, tướng Giáp rất ít khi ra mặt trận. Ngay ở Điện Biên Phủ ông gần  như chỉ ở trong hang đá Mường Phăng, ngoài tầm pháo địch, suốt hơn 4  tháng trời, không ra gần hay sát nơi chiến trận. Sau khi chiến dịch toàn  thắng ông mới ra duyệt binh tại chiến trường đã im tiếng súng  và tìm  hiểu những di tích của các trận đánh. Trước đó, các chiến dịch lớn Trung  Du, Hòa Bình, Thượng Lào … ông cũng ở trên Việt Bắc, chỉ huy từ rất xa.
Từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc chiến tranh ở miền Nam (1959 -  1975), ông không hề đặt chân lên chiến trường miền Nam (trừ 2 ngày tháp  tùng ông Fidel Castro trên một đoạn ngắn thăm đường mòn Hồ Chí Minh trên  đất Cam Lộ - Quảng Trị, khi sắp kết thúc chíến tranh.). Trong khi đó  các tướng Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Trần Độ, Hoàng  Cầm, Lê Ngọc Hiền, Chu Huy Mân, Đoàn Khuê … đều ở chiến trường miền Nam  vài năm. Do đó trong cuộc chiến tranh ở miền Nam, rút ra được những  kinh nghiệm nóng hổi, thiết thực và bổ ích nhất, tướng Giáp đóng góp  không có gì đáng kể, so với một loạt bài tổng kết lớn của tướng Nguyễn  Chí Thanh (ký tên Trường Sơn), một số bài báo của tướng Trần Độ (ký tên  Cửu Long) cũng như một số tài liệu tổng kết cho Học viện quân sự cấp cao  của các tướng Lê Trọng Tấn, Hoàng Cầm, Hoàng Minh Thảo và Nguyễn Hữu An  …mà cán bộ học viện thường gọi là «Binh thư mới» của Quân đội Nhân dân.

Một nhược điểm của tướng Giáp là văn phong, khẩu khí của ông, nếu không  thể nói là yếu kém thì có thể nói là không có gì nổi bật. Ông mất đi, để  lại hàng chục đầu sách, hàng trăm luận văn, bản báo cáo, hàng chục hồi  ký (phần lớn do nhà văn quân đội Hữu Mai ghi lại), rất nhiều bài trả lời  phỏng vấn trong nước và nước ngoài. Có cuốn sách nào hay, những ý tưởng  quân sự nào đặc sắc của cá nhân ông, để lại cho hậu thế hay không? Điều  này rất khó nói. Tôi từng dự nhiều buổi nói chuyện của ông tại Bộ Quốc  phòng, Bộ Tổng tham mưu, tại Học viện Quân sự cấp cao, ở trường Sỹ quan  Lục quân, ở nhiều Quân khu, có thể nói ông không có năng khiếu truyền  đạt, thông tin một cách bổ ích, hấp dẫn, rất thiếu những hình ảnh, dẫn  chứng đặc sắc thú vị. Ông không có tài hùng biện, lôi cuốn của tướng  Nguyễn Chí Thanh, không có tài kể chuyện thú vị  của tướng Trần Độ,  không có sự sống động dày dạn của lão tướng Lê Trọng Tấn, không có sự  táo tợn bộc trực của tướng Phùng Thế Tài, cũng không có cái giọng bình  dân lính tráng bỗ bã của tướng Đinh Đức Thiện.
Vốn là giáo sư sử học trường tư thục Thăng Long, tướng Giáp say mê  nghiên cứu lịch sử, hiểu rõ thiên tài quân sự của Napoléon. Ông thông  minh, đôi mắt sáng, có trí nhớ tốt. Nhưng cách trình bày, khoa sư phạm  của ông thường lại sáo mòn, đầy những quy luật, nguyên tắc nhạt nhẽo,  khô cứng, lặp đi lặp lại đến phát chán cho người nghe. Bao giờ cũng là  do sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng, có đường lối chính trị và đường lối  quân sự đúng đắn; có Quân đội Nhân dân, quân đội của nhân dân, từ nhân  dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, được nhân dân bao bọc, che chở,  nuôi dưỡng, gồm 3 thứ quân: chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du  kích, phối hợp chặt chẽ 3 vùng: rừng núi, trung du và đồng bằng; vùng tự  do, vùng tranh chấp và vùng tạm chiếm; luôn giữ quyền chủ động cả về  chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và chiến đấu, kết hợp chặt chẽ tiền  tuyến với hậu phương…, quanh quẩn chỉ có thế.
Tướng Peter Mac Donald của Quân đội Hoàng gia Anh, từng sang Việt Nam gặp tướng Giáp hồi 1987 đã viết cuốn «GIAP - hai cuộc chiến tranh Đông Dương» (GIAP - les deux guerres d’ Indochine)  do nhà xuất bản Perrin - Paris phát hành năm 1992, trong đó ông nhận  xét: «Những tư tưởng của tướng Giáp được ghi lại trên giấy thường là  chán ngán đến chết người » (ses pensées transcrites sur le papier sont  souvent mortellement ennuyeuses). Đây là nhận xét gần với sự thật.

Kết luận cuốn sách 350 trang, tướng P. Mac Donald viết: «Từ khi còn trẻ,  tướng Giáp đã thấm nhuần lý thuyết Cộng sản. Thật đáng tiếc là trải qua  mấy chục năm dài, lẽ ra trí thông minh của ông đã có thể mách bảo ông  rằng cái chế độ mà ông tham gia xây dựng là sai lầm tệ hại, để từ đó tìm  ra con đường khác bảo đảm hạnh phúc cho đồng bào của ông. Như một người  theo Công giáo thời Trung cổ sợ hãi bị trừng phạt khủng khiếp khi bỏ  đạo, ông đã mù quáng phục vụ đường lối Marx – Lénine theo như Hồ Chí  Minh dẫn giải».
Trên đây là nhận xét khách quan của một nhà quân sự già dặn từng ở trong  quân đội Anh 32 năm, từng sống qua 26 nước, từng nghiên cúu kỹ trận  Điện Biên Phủ, từng là chủ biên cuốn Lịch sử thế giới (1987).

Bi kịch lớn nhất của tướng Giáp khá nhiều người nhận thấy đúng là: một  danh tướng, có kiến thức, thông minh nhưng lại không đủ thông minh và  dũng khí để sớm nhận ra và từ bỏ một lý thuyết sai lầm tệ hại, chỉ đem  lại tàn phá và tổn thất cho nhân dân, đến nay vẫn chưa có tự do và hạnh  phúc khi ông nhắm mắt.

Bùi Tín

Tác giả bài viết: Bùi Tín

Nguồn tin: www.lexuanquang.org